Phí bảo vệ môi trường là một chính sách quan trọng nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường. Trong bối cảnh hiện nay, việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước mà còn là nghĩa vụ của từng cá nhân và tổ chức. Việc áp dụng phí bảo vệ môi trường không chỉ giúp thu hút nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường mà còn khuyến khích các hành vi thân thiện với môi trường từ phía doanh nghiệp và người dân.
Phân biệt phí bảo vệ môi trường và thuế bảo vệ môi trường như thế nào?
Hiện nay, việc nhầm lẫn các phạm trù về pháp luật thường xuyên xảy ra. Do đó, làm thế nào để phân biệt phí bảo vệ môi trường và thuế bảo vệ môi trường. Bạn đọc có thể tìm hiểu phần dưới đây.
Phí bảo vệ môi trường là một khoản tiền được chi trả bởi cá nhân, tổ chức xả thải hoặc phát sinh tác động xấu đối với môi trường.
Thuế bảo vệ môi trường là thuế gián thu, đánh vào sản phẩm mà khi sử dụng có thể gây ra các tác động xấu đến môi trường.
Chính phủ, Bộ Tài chính và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Răn đe, làm thay đổi hành vi của cá nhân, tổ chức gây ô nhiễm môi trường
Tạo ra một nguồn thu cho ngân sách của nhà nước để bù đắp cho chi phí xử lý ô nhiễm, khắc phục hậu quả do môi trường bị ô nhiễm.
Lợi ích của người nộp liên quan trực tiếp đến khoản phí
Lợi ích của người nộp không liên quan trực tiếp đến thuế phải nộp
Trên đây là một số thông tin cần thiết về phí bảo vệ môi trường mà bạn đọc nên hiểu rõ. Tìm hiểu về luật và phí môi trường giúp bạn đọc có cái nhìn đúng đắn và ý thức hơn trong việc giữ gìn môi trường sống. Một trong những hành động thiết thực các doanh nghiệp có thể làm cho môi trường là xử lý nước xả thải trước khi thải ra. Adoco là đơn vị chuyên cung cấp và tư vấn các giải pháp lọc nước và giữ gìn môi trường. Quý khách hàng có nhu cầu, mời liên hệ Adoco theo các thông tin sau đây: Website www.adoco.vn hoặc hotline 0936.763.883 để được tư vấn kỹ lưỡng.
XEM THÊM >>> Lọc tổng nào phù hợp cho căn hộ chung cư
Trong xã hội Nhật Bản, người phụ nữ có vai trò rất quan trọng, do vậy, khi thiết kế chương trình phát triển cộng đồng, Chính phủ luôn chú trọng đến vai trò của người phụ nữ. Hiện nay ở Nhật Bản có khoảng 25.000 tổ chức phụ nữ hoạt động trong các lĩnh vực xã hội khác nhau có liên hệ chặt chẽ với Liên đoàn các tổ chức phụ nữ Nhật Bản. Vì vậy, sự tham gia của phụ nữ vào công tác BVMT mang đến sự thay đổi quan trọng trong việc thực hiện các quy định về BVMT trong cộng đồng và mỗi gia đình.
Phụ nữ Nhật Bản rất tiết kiệm và không xả rác nơi công cộng, công sở. Khi đi làm công sở, họ thường mang theo túi đựng rác sinh hoạt hàng ngày. Hết giờ làm việc, họ mang túi đựng giác đó ra đúng nơi quy định và việc làm này trở thành thói quen hàng ngày. Phụ nữ Nhật Bản chú ý đến việc phân loại rác sinh hoạt theo rác cháy và không cháy, rác kích thước lớn và rác tái tạo. Rác cháy bao gồm tất cả các thức ăn dư thừa khi ăn trưa ở nơi làm việc, giấy vụn... Rác không cháy bao gồm các đồ dùng bằng kim loại hỏng hóc, pin đã qua sử dụng, chai lọ thủy tinh, kim loại… Đối với các loại rác có kích thước lớn (kích thước mỗi bề khoảng hơn 60 cm) như máy điều hòa, ti vi, tủ lạnh, máy giặt, máy vi tính không sử dụng thì phải liên hệ với trung tâm xử lý rác kích thước lớn và mất phí xử lý. Việc phân loại và vứt rác đúng ngày, đúng nơi quy định là một trong những quy tắc sống của người phụ nữ Nhật Bản.
Phân loại rác đã trở thành thói quen của người dân Nhật Bản
Đặc biệt, họ không có thái độ e ngại khi sử dụng đồ cũ, hàng tái chế bởi ở đây có những cửa hàng chuyên thu mua đồ dùng có thể tái sử dụng. Sau khi trải qua quá trình tẩy rửa, chỉnh sửa, các vật dụng được phục hồi gần như mới và bày bán cho mọi người có nhu cầu. Vật dụng gia đình dạng này rẻ hơn, hấp dẫn nhiều phụ nữ lựa chọn mua về sử dụng trong gia đình. Thậm chí, khi hàng có ít, người mua nhiều, họ còn phải tổ chức bắt thăm lựa chọn khách hàng may mắn được sở hữu món đồ tái chế. Tâm lý không e ngại sử dụng đồ cũ của phụ nữ Nhật Bản sẽ giảm bớt lượng rác thải phải xử lý, đồng thời tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, giảm chi phí cho các gia đình, nhà máy xử lý rác thải ở Nhật Bản.
Trong gia đình Nhật Bản, vai trò của người phụ nữ rất quan trọng, do đó người phụ nữ được khuyến khích tham gia những buổi tập huấn về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho bản thân và các thành viên khác trong gia đình bởi các tổ chức an sinh xã hội. Khi tham gia vào các khóa tập huấn kỹ năng chăm sóc, bảo vệ sức khỏe gia đình, phụ nữ có điều kiện tiếp cận với thông tin mới, đồng thời trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm để vận dụng trong cuộc sống gia đình. Do vậy, có rất nhiều chương trình BVMT, bảo vệ sức khỏe cho người dân của Chính phủ được phụ nữ Nhật Bản thực hiện thành công như Chương trình thúc đẩy mở rộng và khuyến khích việc sử dụng những sản phẩm thân thiện với môi trường. Ở Nhật Bản, nếu doanh nghiệp nào không quan tâm đến BVMT, sẽ bị người tiêu dùng tẩy chay và điều tất yếu các sản phẩm mà doanh nghiệp đó sản xuất sẽ tự bị đào thải khỏi thị trường. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản đã phát động chiến dịch khuyến khích người dân đi ngủ sớm một giờ đồng hồ và cũng dậy sớm một giờ đồng hồ để giảm phát thải khí CO2 tại các hộ gia đình. Chương trình kêu gọi mọi người sử dụng ánh sáng mặt trời buổi sớm để nâng cao chất lượng cuộc sống bằng các hoạt động như chạy bộ, tập yoga và ăn một bữa ăn giàu dinh dưỡng... Những chương trình trên đều có sự tham gia vào cuộc tích cực của phụ nữ Nhật bởi họ là người chăm lo những bữa ăn, sức khỏe cho cả gia đình.
Kinh nghiệm ở Nhật Bản cho thấy, khi vai trò của người phụ nữ được khẳng định và đề cao trong cuộc sống thì trách nhiệm BVMT sẽ đi vào đời sống thực tiễn, tạo thành thói quen, tính cách của người Nhật Bản. Phụ nữ Nhật Bản và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng của người phụ nữ Á Đông với các đức tính chăm chỉ, cẩn thận, chu đáo chăm lo cho gia đình. Những kinh nghiệm từ việc làm nhỏ nhưng hiệu quả cao ở phụ nữ Nhật Bản là những bài học giúp cho phụ nữ Việt Nam trong việc nâng cao ý thức phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn, sử dụng tiết kiệm năng lượng và cả tâm lý sử dụng đồ cũ ngày một tốt hơn.
Nguồn: Tạp chí Môi trường, số 11/2013
Phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn
Mức phí bảo vệ môi trường đối chất thải rắn được quy định tại Nghị định 164 về phí bảo vệ môi trường, đã hết hiệu lực vào ngày 15/07/2023 và được thay thế bởi Nghị định số 27/2023/NĐ-CP. Nghị định mới này cụ thể hóa mức thu phí bảo vệ môi trường cho các hoạt động khai thác khoáng sản như sau:
Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với dầu thô được quy định là 100.000 đồng mỗi tấn. Quy định này nhằm đảm bảo trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ môi trường trong quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với khí thiên nhiên và khí than hiện đang được quy định là 50 đồng/m³. Đối với khí thiên nhiên thu được trong quá trình khai thác dầu thô, hay còn gọi là khí đồng hành, mức thu phí được áp dụng là 35 đồng/m³.Đảm bảo việc bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp tuân thủ các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường
Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với hoạt động khai thác tận thu khoáng sản được quy định theo các quy định pháp luật hiện hành về khoáng sản. Mức thu phí này tương đương 60% mức thu phí áp dụng cho loại khoáng sản tương ứng, theo Biểu khung mức thu phí được ban hành kèm theo Nghị định. Quy định này nhằm đảm bảo rằng hoạt động khai thác khoáng sản tận thu không chỉ tuân thủ các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường mà còn đóng góp vào nguồn tài chính cho công tác bảo vệ và phục hồi môi trường.
Để quy định cụ thể mức thu phí bảo vệ môi trường, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ dựa trên nguyên tắc xác định mức thu phí được quy định trong Luật Phí và lệ phí, cũng như Biểu khung mức thu phí ban hành kèm theo Nghị định. Đồng thời, Hội đồng sẽ tham khảo mức thu phí của các địa phương có hoạt động khai thác khoáng sản tương tự. Trên cơ sở đó, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định mức thu và đơn vị tính phí bảo vệ môi trường cho từng loại khoáng sản tại địa phương, đảm bảo tính phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn.